12 năm của Việt Nam leo lên Chỉ số đổi mới toàn cầu
Nó tăng từ thứ 76 năm 2013 lên thứ 44 năm nay, đứng thứ ba ở ASEAN sau Singapore và Malaysia và có sự góp mặt trong các nền kinh tế có sự đổi mới vượt trội so với mức độ phát triển của họ vượt qua mức độ phát triển của nó trong 15 năm liên tiếp. Trong số các quốc gia thu nhập trung bình thấp hơn, Việt Nam chỉ đứng sau Ấn Độ trong khi duy trì vị thế toàn cầu thứ 44 tại thời điểm nhiều nền kinh tế khu vực đang chậm lại. Xuất khẩu. Chiến lược.
Kể từ năm 2017, chính phủ đã coi GII là một công cụ quản trị, thường xuyên đưa ra các biện pháp để cải thiện các chỉ số riêng lẻ. Việt Nam cũng đã bản địa hóa chỉ số, tạo ra Chỉ số đổi mới tỉnh (PII), cho phép các địa phương tự đánh giá, thúc đẩy cạnh tranh và kết nối các chính sách sở hữu trí tuệ với sự đổi mới.
(R&D) Cơ sở hạ tầng đầu tư, khoa học và công nghệ và thương mại hóa sở hữu trí tuệ. Phải là trung tâm, được hỗ trợ bởi một hệ sinh thái kết nối các trường đại học, tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô. Những nỗ lực như vậy đóng vai trò là cầu nối để biến sở hữu trí tuệ thành một động lực kinh tế, phù hợp với nghị quyết của chính trị về việc tạo ra các bước đột phá trong phát triển công nghệ khoa học, đổi mới và chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia. Để tinh chỉnh các khung thể chế và tài chính, mở rộng đầu tư vào khoa học, công nghệ và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, xây dựng lực lượng lao động chất lượng cao và thúc đẩy sự đổi mới trong các doanh nghiệp. 2025 xác nhận sải chân dài Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của nó như là một mô hình đổi mới giữa các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp hơn. Tuy nhiên, để đạt được tham vọng gia nhập Top 30 toàn cầu và trở thành một quốc gia phát triển, quốc gia phải tiến bộ hơn nữa trong đầu tư R&D, chất lượng nguồn nhân lực và thương mại hóa sở hữu trí tuệ.